“Cấy máy giải quyết nhiều vấn đề nhưng khó nhân rộng” cần được khám phá một cách chi tiết và khoa học.
Máy cấy đang thay đổi lớn trong việc sản xuất lúa, với nhiều lợi ích rõ ràng. Trên thực tế, trong sản xuất lúa, phương pháp gieo cấy được áp dụng bởi người dân ở các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có những ưu và nhược điểm khác nhau. Tuy nhiên, sử dụng máy cấy – mạ khay được đánh giá cao vì nó giải quyết nhiều “nút thắt” trong khâu gieo cấy hiện nay.
Nghiên cứu đã cho thấy rằng gieo mạ khay có thể giúp nông dân khắc phục được những ảnh hưởng của thời tiết không thuận lợi, giảm công lấy bùn, làm đất gieo mạ, và nhổ mạ so với cách làm mạ truyền thống. Thêm vào đó, mạ khay cấy mạ non, giữ nguyên hạt lúa, lượng dinh dưỡng vẫn được bổ sung cho cây, giúp cấy xuống ruộng mạ nhanh bén rễ, hồi xanh và có khả năng đẻ nhánh mạnh mẽ.
Sử dụng máy cấy thay đổi tập quán cấy mật độ dày, sâu tay, không hàng lối, thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hóa vào khâu chăm bón, làm cỏ. Điều này thúc đẩy việc dồn điền đổi thửa, quy vùng được cánh đồng lớn, hình thành các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác và tạo sự liên kết trong sản xuất.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã ghi nhận các lợi ích to lớn từ việc sử dụng máy cấy, bao gồm năng suất lao động tăng từ 5 – 7 lần, giảm lượng giống sử dụng khi cấy bằng máy từ 30 – 40% so với cấy tay. Hơn nữa, việc sử dụng máy cấy giúp ruộng thông thoáng, lúa sinh trưởng phát triển tốt, cây cứng, ít bị đổ ngã, dễ kiểm soát cỏ dại và sâu bệnh, giảm sử dụng phân bón và thuốc BVTV, thuận tiện cho thu hoạch bằng máy. Vì vậy, máy cấy giúp giảm chi phí đầu vào khoảng 2 – 3 triệu đồng/ha, nâng cao năng suất lúa từ 500 – 800kg/ha, tăng thu nhập khoảng 4 – 4,5 triệu đồng/ha.

Theo chia sẻ của chị Nguyễn Thị Tuyết, cán bộ phụ trách kỹ thuật thuộc Trung tâm Giống nông nghiệp Hưng Yên (Sở NN-PTNT Hưng Yên), việc sử dụng máy cấy giúp giải quyết hàng loạt vấn đề, từ việc giảm áp lực vụ mùa, tránh thời tiết không thuận lợi trong giai đoạn gieo cấy, cho đến việc giảm chi phí dịch vụ (chỉ khoảng 300.000 đồng/sào, bao gồm cả tiền giống). Đối với phương pháp cấy truyền thống, riêng chi phí thuê lao động đã đạt mức trung bình 350.000 đồng/ngày công, và tại nhiều nơi, con số này có thể lên đến 400.000 – 450.000 đồng/ngày công, không kể đến việc ở nhiều nơi, việc thuê lao động còn gặp khá nhiều khó khăn.
Khắc phục những hạn chế của phương pháp gieo thẳng,
Trong khi đó, ông Trần Quyết Thắng, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Thanh Liêm (Hà Nam), nêu rõ việc lạm dụng giống, phân bón, thuốc BVTV trong quá trình gieo thẳng (thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm, hậu nảy mầm, thuốc ốc bươu vàng, thuốc sâu bệnh…) đã dẫn đến tình trạng chi phí đầu vào tăng cao. Thêm vào đó, dư lượng thuốc BVTV đã gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sinh vật, nguồn nước và môi trường.
Việc thay đổi khí hậu không lường trước được, cùng với những điều kiện thời tiết cực đoan như vụ xuân rét đậm, rét hại kéo dài; vụ mùa thường xảy ra mưa lớn gây ngập úng trùng thời điểm gieo cấy, đã khiến cho nhiều diện tích lúa bị chết, phải gieo đi gieo lại nhiều lần, làm ảnh hưởng đến thời vụ và chi phí sản xuất.
Ngoài ra, tình trạng lúa cỏ (lúa ma) ngày càng tăng, đặc biệt là trên các diện tích lúa gieo thẳng, làm giảm hiệu quả sử dụng phân bón trong canh tác, giảm năng suất, chất lượng lúa, đồng thời nông dân cũng phải mất nhiều công để nhổ bỏ và loại trừ…
Với việc đẩy mạnh cơ giới hóa cấy lúa, những hạn chế của phương pháp gieo thẳng có thể được khắc phục triệt để.
Hải Dương là tỉnh có diện tích

gieo thẳng tương đối lớn ở khu vực ĐBSH. Những năm qua, tỉnh này đã tiên phong thử nghiệm các giải pháp gieo cấy mới để từng bước giúp người dân thay đổi thói quen gieo thẳng, nâng cao giá trị sản xuất lúa. Một trong số đó phải kể đến phương pháp sạ hàng.
Ông Nguyễn Phú Thụy, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Khuyến nông Hải Dương, đã đưa ra nhận xét rằng phương pháp sạ hàng mang một số đặc điểm tương tự với phương pháp gieo thẳng, bao gồm các kỹ thuật ngâm, ủ hạt thóc, làm đất, điều tiết nước mặt ruộng. Ban đầu, khi mới áp dụng phương pháp này, người dân rất hào hứng với việc thử nghiệm. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai và nhân rộng, một số hạn chế của phương pháp này đã bắt đầu xuất hiện, khiến nhiều hộ dân mất hứng thú.
Ông Thụy giải thích rằng diện tích canh tác của các hộ dân thường không liên tục, nhiều hộ sở hữu đến 6-7 mảnh ruộng nhỏ nhưng lại không sử dụng cùng một giống lúa. Điều này dẫn tới việc người dân phải di chuyển dụng cụ sạ hàng liên tục tới các mảnh ruộng khác nhau. Bên cạnh đó, sau khi sạ xong một giống, người dân lại phải vệ sinh máy trước khi sạ giống mới để tránh trộn lẫn, điều này làm tăng thêm thời gian và công sức lao động.
Về mặt kỹ thuật, để dụng cụ sạ hàng hoạt động hiệu quả, hạt thóc sau khi ngâm ủ (chỉ cần nứt nanh) phải đủ nhỏ để lọt qua các lỗ gieo của máy. Nhưng với thời tiết và khí hậu khó lường của miền Bắc, nếu thời tiết trong vụ xuân gặp rét đậm, rét hại, hoặc thời tiết mùa mưa kéo dài, thóc đã nứt nanh mà không kịp gieo sẽ tiếp tục phát triển, làm cho mầm và rễ mọc dài hơn. Khi đó, việc gieo sẽ gặp khó khăn vì mầm, rễ khó lọt qua lỗ gieo của máy, làm cho mật độ gieo không đồng đều.
Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp sạ hàng, độ chìm của hạt thóc không cao, khi gặp mưa lớn có thể bị rửa trôi, dồn mạ, tạo điều kiện thuận lợi cho chuột, ốc phá hại. Tất cả những vấn đề này đều giới hạn khả năng áp dụng phương pháp sạ hàng trong các tỉnh thuộc ĐBSH và làm giảm hiệu suất sử dụng phương pháp này.
Nhiều rào cản trong việc cơ giới hoá
Theo ông Vũ Đình Tam, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ cơ giới hóa nông nghiệp Tân Hồng, tại thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, Hải Dương, các HTX sản xuất mạ khay đang đối mặt với những thách thức lớn. Một trong những thách thức chính là chi phí đầu tư ban đầu cần thiết cho việc mua máy móc, giá thể, khay mạ, máy gieo, và xây dựng nhà xưởng.

Ngoài ra, việc duy trì hoạt động sản xuất đòi hỏi một quỹ đất đủ lớn để chứa giá thể, đặt máy gieo, khay mạ và lắp đặt hệ thống tưới. Hiện tại, UBND xã đã hỗ trợ HTX bằng cách cho thuê diện tích hơn 4.000m2 trong thời gian 5 năm. Tuy nhiên, ngay cả với diện tích này, HTX cũng gặp khó khăn khi phải sản xuất 4 vạn khay mạ cho hơn 400 mẫu ruộng mỗi vụ.
Một thách thức khác là việc thiếu giá thể phù hợp tại địa phương, buộc HTX phải nhập từ tỉnh Thanh Hóa. Giá thể cần phải đảm bảo ít sâu bệnh, thoát nước tốt và đất tơi, điều kiện cần thiết để máy cấy không bị giắt. Nhưng, việc này tạo ra chi phí vận chuyển cao và đòi hỏi diện tích đủ rộng để dựng nhà xưởng tập kết và đặt máy sàng, máy gieo, bởi những thiết bị này không thể để ngoài trời.
Sau khi tạo ra thành phẩm là các khay mạ, HTX cũng cần có diện tích lớn để chăm sóc và bảo quản khay mạ. Hiện tại, HTX đã phải sử dụng các bãi đất trống, sân vận động, sân nhà văn hóa ở các thôn trong xã để đặt khay. Việc này đặt ra nhiều rủi ro như thời tiết xấu, mất trộm, chi phí vận chuyển và việc người dân không ủng hộ việc sử dụng đất tập thể.
Theo ông Tam, thực tế đáng tiếc hiện nay là nhu cầu sử dụng mạ khay – cấy máy của người dân tăng cao, nhưng các HTX không thể đáp ứng đủ. “Khung thời vụ gieo cấy ở các tỉnh miền Bắc thường ngắn (vụ đông 20 – 22 ngày, vụ mùa 12 – 15 ngày). Một máy cấy 6 hàng hoạt động hết công suất trong điều kiện ruộng bằng phẳng có thể cấy được 3,5 – 4ha/ngày. Như vậy, HTX có 5 máy cấy, tối đa vụ mùa cũng chỉ cấy được hơn 300ha. Nếu các địa phương có khung thời vụ sớm hơn hoặc muộn hơn thì mới có thể tranh thủ đưa máy sang cấy dịch vụ để tăng thêm nguồn thu, còn không máy cấy chỉ hoạt động trong vòng nửa tháng rồi cất vào kho”, ông Tam phân tích.
Xem thêm: